Dưới đây là bài phỏng vấn chị Vũ Thu Hà, người được cộng đồng Việt Nam biết đến là một trong những doanh nhân Việt Nam thành công trên đất Nhật. Chị Vũ Thu Hà chia sẻ về những thuận lợi, khó khăn khi muốn khởi nghiệp ở Nhật cũng như nhận định của riêng chị về tiềm năng của một số ngành kinh doanh còn nhiều tiềm năng phát triển.
Là một doanh nhân khởi nghiệp có thể coi là thành công trên đất Nhật, chị có lời khuyên nào cho các bạn trẻ Việt Nam hiện nay muốn khởi nghiệp ở Nhật, theo chị, họ nên khởi nghiệp ngay khi thấy cơ hội hay nên học và đi làm một thời gian rồi mới khởi nghiệp?
Trước hết, cảm ơn em rất nhiều đã ưu ái dành cho chị cơ hội được trò chuyện lần này. Chị cũng phải nhấn mạnh luôn là chị chưa có thành tựu gì đáng kể để có thể coi là thành công được, chỉ là tạm coi “đang sống sót được” sau 4 năm khởi nghiệp mà thôi.
Trả lời câu hỏi của em, chị nghĩ đối với mỗi ngành nghề, mỗi hoàn cảnh, sẽ tự tìm cho mình con đường riêng, không ai có thể giống ai cả.
Nên học và đi làm một thời gian” – cái “thời gian” đó là bao lâu, không của ai giống ai cả. Từ kinh nghiệm của mình, chị chỉ thấy rằng, có 2 thứ mất đi không bao giờ lấy lại được: đó là cơ hội và tuổi trẻ…Học hành và tích lũy kinh nghiệm là việc cả đời không bao giờ đủ, biển học vô bờ, và kinh nghiệm thì chỉ từ những vấp ngã thực tế mà đúc kết nên thôi.
Lĩnh vực để khởi nghiệp nào theo chị sẽ có tìm năng trong khoảng từ 3 đến 5 năm tới?
Ẩm thực, kinh doanh hàng hóa, cung cấp dịch vụ có thể coi như những ngành rất tiềm năng vì thực tế khắp nơi trên thế giới, các ngành này vẫn đang tiếp tục được phát triển, ra đời nhiều thương hiệu mới, không riêng gì chỉ Việt Nam hay Nhật.
Nếu là các bạn trẻ khởi nghiệp ở Nhật, chị nghĩ quan trọng nhất là xem mình có thế mạnh gì. Nấu ăn ngon, hay có tâm huyết với lĩnh vực ẩm thực, thì còn chần chừ gì nữa, hãy cố gắng lên. Nhìn xung quanh cộng đồng người Việt mình ở Mỹ, Úc, hay châu Âu…, có biết bao tên tuổi đã đưa phở, bánh mì… của mình ra nước ngoài. Ở Nhật, đặc biệt như Fukuoka chỗ chị, còn quá ít quán Việt nam, so với quán Tàu, hay thậm chí quán Ấn độ, trong khi hỏi 10 người Nhật thì có đến 9 người nói món Việt gần món Nhật hơn cả, dễ vừa miệng người Nhật hơn cả. Như vậy có thể nói tiềm năng cho việc kinh doanh đồ ăn Việt tại Nhật còn rất lớn. Nhưng thách thức của ngành không phải ít.
Nói vậy, chứ thật lòng bản thân công ty của chị cũng từng thất bại với 1 quán phở Việt Nam rất đẹp, ngay từ năm đầu tiên thành lập công ty. Chị không có tâm huyết với lĩnh vực ẩm thực, nên đã không quyết tâm đi đến cùng, dù rất tiếc. Bọn chị làm về xuất nhập khẩu hàng hóa, vì đó mới là thế mạnh của dân Ngoại thương.
Làm kinh doanh hàng hóa có cái rủi ro lớn là cần vốn, và phải đầu tư cho hàng hóa, kho bãi, vì thế, bạn nào không đủ mạnh về vốn, không gọi vốn được, nên bắt đầu từ các ngành dịch vụ thì đỡ sức ép hơn.
Môi trường khởi nghiệp tại Nhật có những yếu tố gì quan trọng nhất cần phải chú ý?
Khởi nghiệp, hay nói cách khác, làm kinh doanh ở Nhật, chị nghĩ quan trọng nhất là phải giữ chữ tín. Cộng đồng doanh nghiệp Nhật họ có những công ty cung cấp dịch vụ đánh giá, cho điểm uy tín, năng lực của một công ty, và dựa vào dữ liệu đó, các đối tác sẽ đánh giá mình để có hướng hợp tác phù hợp.
Ví dụ điểm cao, sẽ được thanh toán trả sau 1 cho đến 3 tháng, thay vì trả ngay khi giao hàng… hay tự động các ngân hàng sẽ thay nhau đến chào đón các gói vay với lãi suất ưu đãi nhất của họ, và mình được ở vào thế lựa chọn có lợi nhất.
Cho nên, phải đặc biệt chú ý, nhất là với những công ty còn trẻ, giao hàng đúng hẹn, thanh toán nghiêm túc, vân vân…
Thêm một yếu tố nữa là cần tuân thủ luật pháp. Môi trường pháp lí cho các doanh nghiệp ở Nhật rất rành mạch, rõ ràng, không gây khó khăn gì, nhưng bù lại cần phải “sống và làm việc” theo pháp luật, nhất là từ góc độ người nước ngoài như mình, có vô vàn quy định tưởng chừng đơn giản mà mình lại không biết.
Từ kinh nghiệm của cá nhân chị, chị thấy môi trường khởi nghiệp Nhật có những thuận lợi và khó khăn gì?
Thuận lợi thì chị nghĩ là một nước Nhật già cỗi như mọi người thấy, sẽ rất cần “sức trẻ” của chúng ta. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, quan hệ Việt Nhật đang phát triển rực rỡ, mối quan tâm của người Nhật đối với các sản phẩm made in Việt nam ngày càng lớn, cùng với “cơn sốt hàng Nhật”, “trào lưu đi du lịch hay khám bệnh ở Nhật” vân vân… ngày càng phát triển ở Việt nam, sẽ có rất nhiều cơ hội cho doanh nghiệp “gốc Việt nam” tại Nhật, cầu nối kinh tế trực tiếp nhất của 2 đất nước.
Khó khăn thì khi bắt tay vào thực tế mới tự “trải nghiệm” được. Cơ bản nhất, thì có lẽ là ở “tính bảo thủ” của người Nhật và “tính tùy tiện” của người Việt không thể dung hòa được với nhau. Tính bảo thủ của người Nhật, sẽ thể hiện rõ ở Việt để chen chân 1 sản phẩm mới “made in Vietnam” y hệt thay thế “made in China” chẳng hạn, sẵn có của họ, sẽ phải mất rất nhiều thời gian và công sức. Người Nhật nhìn chung ngại thay đổi, ngại thử nghiệm cái mới nếu cái cũ không có gì phàn nàn… Nhưng bù lại, tính bảo thủ đó đi kèm với sự trung thành, một khi họ đã quen với sản phẩm, dịch vụ của bạn rồi, họ sẽ không muốn thay đổi nữa.
Tính tùy tiện của người Việt sẽ xuất hiện ở những doanh nghiệp chưa hoặc ít có kinh nghiệm làm việc với đối tác Nhật. Nhiều việc họ nghĩ hoàn toàn bình thường ở Việt nam có khi lại là không thể chấp nhận được đối với phía Nhật.
Hàng lỗi chút có sao đâu mà kêu, soi kĩ thế, khó tính thế… có thể là tâm trạng dễ hiểu của những doanh nghiệp Việt nam lần đầu làm việc với phía Nhật. Chị luôn trăn trở muốn tăng sản lượng hàng made in Vietnam sang Nhật để cân bằng với mảng hàng từ Nhật về hiện nay mà loay hoay mãi chưa làm được, có lẽ đó chính là khó khăn lớn nhất hiện nay của công ty chị.
Xin cám ơn chị về bài phỏng vấn rất ý nghĩa!
Khi các cặp vợ chồng trẻ ở Nhật Bản mải mê làm việc để đáp ứng tiêu chuẩn của xã hội, người ta bỏ qua những nhu cầu cơ bản nhất của một gia đình, bao gồm cả việc sinh con để duy trì nòi giống.
Khủng hoảng sinh sản Nhật Bản và những tai ương chưa từng có với nền kinh tế
Cái chết của gia đình
Đã là nửa đêm ở Tokyo và Takehiro Onuki cũng vừa rời văn phòng sau 16 tiếng làm việc. Nhân viên bán hàng 31 tuổi tới ga tàu điện ngầm lúc 0h24 phút sáng, chuyến cuối cùng trong ngày, để về nhà ở Yokohama. Đoàn tàu sẽ sớm chật kín những người làm việc về khuya giống như anh.
Vào lúc 1h30, Onuki về nhà sau khi dừng tại cửa hàng bán đồ ăn nhanh để mua một cái bánh mì. Khi về đến nhà, Onuki mở cửa phòng ngủ và đột ngột khiến vợ tỉnh giấc. Vợ anh, Yoshiko, chỉ vừa chợp mắt sau ngày làm việc 11 giờ. Bị vợ cằn nhằn vì gây ổn, Onuki xin lỗi trước khi lên giường đi ngủ với thức ăn chưa kịp tiêu hóa và không quên đặt báo thức lúc 7 giờ sáng để đi làm.
Trong hai thập kỷ qua, những câu chuyện như của vợ chồng nhà Onuki đã trở nên phổ biến ở Nhật Bản. Họ phải miệt mài phấn đấu, cố gắng để khẳng định mình trong xã hội Nhật Bản. Tuy nhiên, xét trên phương diện một gia đình bình thường, những cặp vợ chồng như Onuki đang thất bại. Họ chẳng có thời gian rảnh rỗi để đáp ứng những điều cơ bản nhất của một gia đình.
Và xã hội Nhật Bản đang phải trả giá cho điều đó. Nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới đang chìm trong vòng luẩn quẩn về tỷ lệ sinh thấp và chi tiêu tiêu dùng kém. Chỉ trong vòng 5 năm qua, dân số Nhật Bản đã giảm 1 triệu người. Nếu tình trạng này không cải thiện, các chuyên gia cảnh báo một thời kỳ suy thoái kinh tế trầm trọng và sự đổ vỡ của đời sống xã hội.
Mary Brinton, nhà xã hội học Harvard, cho rằng, tình hình sẽ tồi tệ hơn cho đến khi Thủ tướng Shinzo Abe và nội các của ông tìm ra phương pháp. Nếu cuộc khủng hoảng này tiếp tục diễn ra, “nó sẽ là cái chết cho gia đình”.
Quả bom nhân khẩu học đang hẹn giờ
Các nhà kinh tế gọi Nhật Bản là quốc gia của “quả bom nhân khẩu học đang hẹn giờ”. Tại Nhật Bản, chi tiêu giảm làm tổn hại nền kinh tế, khiến các gia đình không muốn có con trong khi người dân có tuổi thọ ngày càng cao hơn.
Nhà xã hội học Brinton nhấn mạnh: “Dân số già đi sẽ khiến chính phủ phải chi nhiều tiền hơn trong khi quỹ hưu trí và an sinh xã hội tiếp tục khủng hoảng. Ngoài ra, xã hội Nhật Bản còn thiếu lao động trầm trọng, dẫn tới việc làm chậm tăng trưởng kinh tế hay đình trệ các hoạt động sản xuất”.
Quả bom hẹn giờ nhân khẩu học được kích hoạt ngay sau thế chiến 2, khi nước Nhật là kẻ bại trận. vào đầu những năm 1950, Thủ tướng Shigeru Yoshida coi tái thiết nền kinh tế Nhật Bản là ưu tiên hàng đầu. Ông khuyến khích các tập đoàn lớn đảm bảo nhân viên của họ sẽ là nhân viên trọn đời, yêu cầu ở các công nhân sự trung thành. Phương thức này đã phát huy hiệu quả và vị trí của nước Nhật ngày nay phần lớn đến từ nỗ lực cải cách của Yoshida cách đây hơn 6 thập kỷ.
.
Dân số Nhật Bản ngày càng giảm trong khi số người lớn tuổi sẽ ngày càng tăng.
Tuy nhiên, phương pháp này rõ ràng có nhược điểm và đó là sự tăng trưởng kinh tế. Vào đầu những năm 1950, tỷ lệ sinh ở Nhật Bản là 2,75 con/1 phụ nữ khỏe mạnh. Đến năm 1960, khi các doanh nghiệp ngày càng yêu cầu nhiều hơn ở công nhân của họ, tỷ lệ sinh giảm xuống 2,08 con/1 phụ nữ khỏe mạnh. Nhật Bản dần rơi vào tình cảnh mức sinh chỉ vừa đủ để đảm bảo sụt giảm dân số.
Khi ngày càng có nhiều phụ nữ bước chân vào lực lượng lao động, tỷ lệ sinh trong xã hội Nhật bản tiếp tục giảm xuống. Hiện tại, tỷ lệ sinh của Nhật là 1,41 con/1 phụ nữ khỏe mạnh. Dù dân số Nhật Bản đang giảm nhưng điên cuồng làm việc vẫn là tiêu chuẩn của xã hội này.
Những tia hy vọng
Ở trung tâm Tokyo, Natsuko Fujimaki, 36 tuổi, đang điều hành một trung tâm dạy tiếng anh cho trẻ em. Fujimaki rất yêu thương những đứa trẻ và mong được nhìn thấy chúng một hoặc hai lần mỗi tháng vào mỗi buổi sáng thứ 7.
Vào những ngày cuối tuần, một nhóm 15 bà mẹ đang đi làm tập hợp tại tòa nhà một phòng đầy màu sắc. Họ trao đổi với nhau những câu chuyện về những ngày dài đầy hối hả, chia sẻ những mẹo trong cuộc sống để vừa chăm sóc con cái nhưng vẫn đảm bảo sự nghiệp. Fujimaki là người tổ chức cuộc gặp gỡ này bởi đó là đam mê của cô.
Fujimaki đang là bà mẹ một con. Cha cô bỏ đi khi cô còn bé nên mẹ cô phải làm việc để nuôi sống gia đình. Ở xã hội mà nhiều người phụ nữ cảm thấy vui vẻ khi là một bà nội trợ, Fujimaki quyết tâm theo đuổi sự nghiệp nhưng vẫn cân bằng cuộc sống gia đình. Đó là lý do cô vẫn đi làm sau khi kết hôn và kết nối những phụ nữ có cùng quan điểm như mình.
Những việc làm của Fujimaki chỉ là một trong những cách khắc phục hậu quả mà nỗ lực tái thiết của Thủ tướng Yoshida để lại, khi đàn ông và phụ nữ trong xã hội Nhật Bản đều cho rằng họ có vai trò cụ thể trong nền kinh tế. Tuy nhiên, lực lượng lao động mới nổi ở Nhật Bản không còn duy trì suy nghĩ đó.
Từ những năm 1970, nữ quyền ở Nhật Bản vẫn có những bước tiến chậm. Tuy nhiên, sự bình đẳng đang ngày càng được đẩy cao hơn trong khi những công ty mô hình kim tự tháp (làm càng lâu, phúc lợi càng cao) đang có dấu hiệu thay đổi. Trong quá khứ, người ta ít khi chuyển việc vì ngại phấn đấu lại từ đầu do các nhà quản lý không coi trọng kinh nghiệm và kỹ năng họ có.
Cả Natsuko và Yoshiko đều đang mắc kẹt trong tình trạng này. Đôi vợ chồng trẻ cho biết họ đã rất chán nản và mệt mỏi với công việc hiện tại. Tuy nhiên, mong muốn tìm việc mới chỉ có thể được thực hiện khi có điều gì đó được cải thiện. Trong khi đó, những phụ nữ nghỉ làm để sinh con rất khó tìm việc sau đó nên các công ty Nhật Bản cũng đang dần thay đổi để xóa đi cái gọi là “hình phạt cho các bà mẹ” này.